Kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm phục hồi với 7 điểm sáng

Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2024 phục hồi tích cực với 7 (bảy) điểm sáng, có thể đạt mức tăng trưởng 6,8-7% trong cả năm 2024 (kịch bản cơ sở), hoặc có thể khả quan hơn, trên 7% (kịch bản tích cực).

Một là, Quốc Hội, Chính phủ đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, nỗ lực tháo gỡ khó khăn, điểm nghẽn của nền kinh tế; khẩn trương khắc phục hậu quả của cơn bão số 3, ổn định đời sống nhân dân, khôi phục sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát

Chính phủ đã trình Quốc hội đã thông qua 11 Luật, 21 Nghị quyết quan trọng tại kỳ họp thứ 7 vừa qua, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, cải thiện môi trường kinh doanh, trong đó có nhiều Luật quan trọng như Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi), Luật Thủ đô (sửa đổi), Luật Đấu giá tài sản (sửa đổi); Nghị quyết về cơ chế đặc thù cho TP. Đà Nẵng và Nghệ An…v.v.

Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định, văn bản hướng dẫn thực hiện các Luật đã có hiệu lực (nhất là Luật TCTD hiệu lực từ 1/7/2024; Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) hiệu lực từ 1/8/2024..), nhằm tháo gỡ rào cản, nhất là cho các thị trường đất đai, chứng khoán, tín dụng, bất động sản, khơi thông nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời yêu cầu các bộ, ngành, địa phương hoàn thành ban hành văn bản hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thi hành luật, đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Công điện, tổ chức các hội nghị quan trọng, chỉ đạo điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, phối hợp với các chính sách khác nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là Nghị quyết 143/NQ-CP ngày 17/9/2024, Công điện số 100/CĐ-TTg ngày 27/9/2024 và các Công điện, Chỉ thị khác nhằm kịp thời nhằm khắc phục hậu quả cơn bão số 3, ổn định đời sống nhân dân, khôi phục sản xuất – kinh doanh, duy trì đà tăng trưởng, kiểm soát lạm phát. Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn, Đề án phát triển nguồn nhân lực bán dẫn và triển khai các cấu phần liên quan…v.v.

Đáng lưu ý, theo tinh thần Nghị quyết 01/2024/CP-NQ ngày 5/1/2024, chính sách tài khoá tiếp tục mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, thúc đẩy tăng trưởng. Theo đó, các chính sách hỗ trợ tài khóa như giãn, hoãn, giảm thuế - phí, lệ phí tiếp tục được ban hành, hiệu lực cơ bản đến hết năm 2024 (với mức gần tương đương hồi dịch Covid-19). Theo Nhóm Nghiên cứu, tổng giá trị danh nghĩa của các gói, chính sách hỗ trợ tài khóa này lên đến gần 185.000 nghìn tỷ đồng, còn giá trị hỗ trợ (thực tế chi) của NSNN lên đến 95,7 nghìn tỷ đồng.

Chính sách tiền tệ theo hướng linh hoạt, nới lỏng có kiểm soát, phục vụ mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Nhiều chính sách, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất cho vay, định hướng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, sản xuất - kinh doanh (SXKD), tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp…tiếp tục được triển khai. Đặc biệt, Chính phủ, NHNN tiếp tục cho phép cơ cấu lại nợ và giữ nguyên nhóm nợ thêm 6 tháng, đến 31/12/2024 nhằm hỗ trợ bên vay thêm thời gian để tiếp cận vốn, thu xếp tài chính, vượt qua giai đoạn khó khăn, cùng với các chính sách giảm lãi, phí, cho vay phục hồi SXKD sau cơn bão số 3.

Cùng với đó, công cuộc tăng trưởng xanh, chuyển đổi số và cải cách hành chính được thúc đẩy, nhiều chính sách, giải pháp được triển khai nhằm đẩy mạnh việc thực hiện Đề án 06 về xây dựng và khai thác dữ liệu về dân cư, quan tâm phát triển kết cấu hạ tầng (gồm cả hạ tầng điện năng), đổi mới sáng tạo, liên kết vùng…và các động lực tăng trưởng mới khác.

Hai là, kinh tế tiếp tục phục hồi tích cực, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, cũng như cả năm 2024: GDP Qúy 3/2024 ước tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn Qúy 1 (tăng 5,66%) và Qúy 2 (tăng 6,93%); GDP 9 tháng tăng 6,82%, cao hơn cùng kỳ các năm 2023, 2020, 2021.

Xét về các động lực tăng trưởng từ phía cung, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng cao nhất 8,19% và đóng góp 46,22% vào tăng trưởng GDP (trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng quan trọng với tốc độ tăng 9,76%, đóng góp 35,8%); khu vực dịch vụ tăng 6,95%, đóng góp cao nhất 48,41%. Sản xuất công nghiệp (SXCN) phục hồi khá với chỉ số SXCN tăng 8,6% so với cùng kỳ (so với mức tăng 0,3% của cùng kỳ năm 2023) cho thấy năng lực SXCN gắn với xuất khẩu phục hồi tích cực; nhiều ngành công nghiệp chế biến - chế tạo tăng cao hơn so với cùng kỳ như thép, dệt, gỗ, phân bón, sữa bột, ôtô, cao su và nhựa, điện tử, máy vi tính …v.v.

Xét về phía cầu, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,18% so với cùng kỳ, đóng góp cao nhất vào tăng trưởng GDP (62,66%); tích lũy tài sản (đầu tư) tăng 6,86%, đóng góp 36,68%; chênh lệch xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 0,66%.

Trong đó, tính chung 9 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất – nhập khẩu (XNK) đạt 578,5 tỷ USD, tăng 16,3%, với xuất khẩu tăng 15,4%, nhập khẩu tăng 17,3% nhờ đà phục hồi của nhu cầu thế giới, nhất là tại các đối tác lớn của Việt Nam. Cán cân thương mại thặng dư đạt gần 21 tỷ USD, góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối.

anh-t42

 

Thu hút và giải ngân FDI đạt kết quả tích cực với vốn đăng ký trong 9 tháng đạt 24,78 tỷ USD, tăng 11,6%, giải ngân vốn FDI đạt 17,34 tỷ USD, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, là mức giải ngân cao nhất của 9 tháng đầu năm trong vòng 7 năm qua. Cùng với đó, đầu tư tư nhân đang phục hồi, tăng 7,1% trong 9 tháng, gấp 3,4 lần mức tăng 2,1% của cùng kỳ năm trước và cao hơn cùng kỳ các năm 2020-2021.

Tiêu dùng tiếp tục phục hồi, du lịch tăng mạnh, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 9 tháng tăng 8,8% (cao hơn mức tăng trưởng cùng kỳ các năm 2020-2021) nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh và tiêu dùng cá nhân phục hồi. Việt Nam đã đón gần 12,7 triệu lượt khách quốc tế, tăng 43% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2019 (năm trước dịch).

Ba là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 9 tháng tăng 3,88%, thấp hơn mức tăng 4,04% của 8 tháng đầu năm nhờ xu hướng hạ nhiệt của lạm phát và giá hàng hóa thế giới (giá xăng dầu trong nước giảm 8,2% so với đầu năm và giảm 20,8% so với cùng kỳ); giá lương thực thực phẩm và hàng hóa thiết yếu cơ bản ổn định, dù chịu ảnh hưởng cơn bão số 3 vừa qua. Lạm phát cơ bản tăng 2,69% so với cùng kỳ năm 2023 (giảm dần từ mức tăng 2,84% hết 2 tháng đầu năm 2024), thấp hơn mức tăng của lạm phát tổng thể (3,88%) cho thấy lạm phát tăng chủ yếu là do giá lương thực - thực phẩm, điện sinh hoạt, dịch vụ giáo dục, y tế, và nhà ở - vật liệu xây dựng (5 nhóm này đóng góp đến 88,5% mức tăng CPI).

Các cân đối lớn được bảo đảm với mức nợ công, nợ nước ngoài, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đều dưới ngưỡng Quốc Hội cho phép và thấp hơn mức trung bình của thế giới và các nước tương đồng; an ninh lương thực, an ninh năng lượng và an sinh xã hội được đảm bảo.

Bốn là, mặt bằng lãi suất cơ bản ổn định, tỷ giá hạ nhiệt, góp phần hỗ trợ người dân và doanh nghiệp; tín dụng đang dần phục hồi, nợ xấu tăng trong tầm kiểm soát: lãi suất cho vay tiếp tục giảm nhẹ (-0,86%) dù lãi suất huy động tăng 0,3-0,5% so với cuối năm 2023. Tín dụng ước tăng gần 9% so với cuối năm 2023 nhờ sự khởi sắc của các hoạt động đầu tư, tiêu dùng và thị trường bất động sản (BĐS). Tỷ giá liên ngân hàng tăng khoảng 2% từ đầu năm đến nay, hạ nhiệt đáng kể so với mức tăng gần 5% cuối tháng 6/2024. Nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 7/2024 ở mức 4,75%, cao hơn mức 4,55% cuối năm 2023 và 2% cuối năm 2022, song nếu loại trừ nợ xấu của 5 tổ chức tín dụng yếu kém thì tỷ lệ nợ xấu khoảng 2,3%. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường BĐS đang dần phục hồi (dù còn chậm so với ký vọng), một phần là nhờ cú huých từ các luật mới có hiệu lực (Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản có hiệu lực từ 1/8/2024)…v.v.

Năm là, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tăng khá cùng với đà phục hồi của sản xuất, tiêu dùng và XNK: hết 9 tháng, thu NSNN đạt 85,1% dự toán năm, tăng 17,9% so với cùng kỳ, bổ sung nguồn lực mở rộng tài khóa. Tuy nhiên, cần lưu ý là chi NSNN chỉ bằng 59,3% dự toán năm và chỉ tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do giải ngân đầu tư công còn chậm và một số nguồn thu ngân sách còn có yếu tổ thiếu bền vững (như thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, đất đai, kinh doanh chứng khoán…).

Sáu là, tình hình doanh nghiệp có nhiều cải thiện: đến hết 9 tháng đầu năm có 183 nghìn doanh nghiệp gia nhập thị trường, tăng 9,74% so với cùng kỳ năm 2023, và so với 163,8 nghìn DN rút lui hỏi thị trường, dù chịu ảnh hưởng bởi con bão số 3 vừa qua. Khảo sát của TCTK và các hiệp hội cho thấy niềm tin của doanh nghiệp vào triển vọng SXKD, khối lượng sản xuất và đơn hàng trong quý 4/2024 đều cao hơn so với mức khảo sát cho quý 3/2024. 

Bảy là, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều hoạt động ngoại giao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước được đẩy mạnh, các chuyến thăm cấp cao lẫn nhau giữa lãnh đạo cấp cao của Việt Nam với các nước Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Lào, Cuba, Mông Cổ…; tích cực tham gia nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng như Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Đại Liên (Trung Quốc) 2024, Diễn đàn Tương lai ASEAN (AFF) 2024, Hội nghị thượng đỉnh tương lai - Liên Hợp quốc…; qua đó tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam; tạo cơ hội thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch, phát triển các lĩnh vực mới như kinh tế số, kinh tế xanh, khoa học công nghệ, công nghiệp bán dẫn…trong thời gian tới.

Nỗ lực điều hành và kết quả tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, thúc đẩy đổi mới - sáng tạo, kinh tế số, chuyển đổi xanh…của Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Ngày 18/9/2024, các tổ chức S&P và Moody’s nâng hệ số tín nhiệm quốc gia Việt Nam thêm một bậc, chỉ còn cách định mức Đầu tư 1-2 bậc, duy trì triển vọng ở mức Ổn định trong dài hạn và có thể phục hồi mức tăng trưởng 6,5-7% trong giai đoạn 2025-2030. Cùng với đó, Việt Nam tăng 2 bậc về Chỉ số đổi mới - sáng tạo toàn cầu năm 2024 (lên vị trí 44/133 thế giới và thứ 4/10 ASEAN), chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 tăng 15 bậc so với năm 2022, xếp hạng 71/193 thế giới…v.v.

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV

Link nội dung: https://saodoanhnhan.vn/kinh-te-viet-nam-9-thang-dau-nam-phuc-hoi-voi-7-diem-sang-a452501.html